Tôi với thầy quen nhau từ cái thuở ban sơ, chưa có mối tình nào để vắt vai.
Bước vào đệ thất P.C.T với bao ngỡ ngàng xa lạ, tôi với thầy tình cờ về chung lối. Thầy Huế gốc, tôi Huế lai cũng gọi là đồng hương, nên quen nhau từ đó.
Xưng hô giữa hai đứa thầy thường gọi tôi là trò “quê trò ở đâu” tôi cũng thấy lạ. Ở Đà Nẵng thân thiết thì gọi mi tau, quý tộc như các mệ thì gọi tên, tây một chút như T.C.S thì gọi “moa”, “toa”, còn riêng thầy thì gọi tôi là trò (nói như Hà Thủy nghe mất sướng), nhưng rồi cũng quen cũng thấy hay hay.
Thế là thành tri kỷ, nghe thầy kể chuyện về Huế thời kỳ của chiến tranh, khó khăn của cuộc sống thầy phải vào Đ.N, tôi cũng thấy bâng khuâng.
Rồi sang trang mới, tương lai mờ mịt mỗi đứa mỗi nơi, không tin tức không điện thoại làm sao liên lạc chuyện trò.
Rồi một buổi chiều thầy vào nhà, gặp nhau ngỡ ngàng xa lạ, mình thoát tục đi tu ngày mai vào Long Khánh, tự dưng thấy bùi ngùi lạ, cái sâu lắng của nửa đời người.
Thầy nhận lấy cái duyên, tôi nhận lấy cái nghiệp.
Ngày mai đưa thầy ra bến xe, với áo nâu sòng tay nải, một chút lạnh của buổi sáng nghe chạnh lòng, như thế tôi không còn nghe chữ trò của ngày xưa nữa.
“Từ đó em là sương rụng mát trong bình minh, từ đó ta là đêm nở đóa hoa vô thường”.
Nguyễn Tấn Mừng