
Bbt. Thế Lữ là một nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch người Việt Nam. Nhắc đến ông, có lẽ người ta sẽ nhớ ngay đến cái giọng thơ mạnh mẽ mà ý vị của bài thơ Nhớ Rừng. Ông nổi danh trên văn đàn vào những năm 1930, với những tác phẩm thơ mới và văn xuôi. Tập truyện Vàng và Máu (1934) là một trong những tác phẩm đã nâng tầm tên tuổi ông. Ông sanh ngày 10 tháng 6 năm 1907 và mất ngày 3 tháng 6 năm 1989, tên khai sinh là Nguyễn Đình Lễ (sau đó đổi thành Nguyễn Thứ Lễ).
Năm nay 2022 Nhâm Dần (năm con cọp, con hổ hay ông ba mươi) – một con vật, nhân vật quen thuộc trong văn chương, trong đó có bài thơ Nhớ Rừng của Thế Lữ – một hình ảnh độc đáo của con hổ bị nuôi, nhốt trong cũi, nhớ rừng già, sông suối với nỗi căm hờn. Bài thơ có 2 bản, bản đầu vào năm 1935, sau đó được tác giả chỉnh sửa vào năm 1941.
Dưới đây là bản đầu in năm 1935: Là bài đầu trong Tập Mấy Vần Thơ in lần đầu năm 1935 gồm 28 bài.
Tặng Nguyễn Tường Tam (*)
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé diễu oai rừng thẳm,
Nay bị sa cơ, nhục nhằn tù hãm,
Làm một trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
Bị ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cõi sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn những đám âm thầm, lá dài, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta là chúa tể cả muôn loài,
Trong chốn cỏ hoa không tên, không tuổi.
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển động bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm cảnh giang san ta đổi mới?
Đâu những buổi bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những buổi chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi tắt mảnh mặt trời gay gắt,
Để chiếm lấy phần tối tăm bí mật?
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
*
Nay ta ôm nỗi hận ngàn thâu,
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Lẩn lút bên những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.
Hỡi cảnh oai linh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị.
Là nơi ta thênh thang vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta chẳng còn mong được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!/-
PS. Nguyễn Tường Tam là một nhà văn, nhà báo với bút danh Nhất Linh, Tam Linh, Bảo Sơn, Lãng du, Tân Việt, Đông Sơn (khi vẽ); và cũng là chính trị gia nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 20.
Ông là người thành lập Tự Lực văn đoàn năm 1933 với 7 người: Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Ðạo, Tú Mỡ, Nguyễn Gia Trí và Thế Lữ. Ông là cây bút chính của nhóm, và từng là Chủ bút tờ tuần báo Phong Hóa, Ngày Nay. Về sau, ông còn là người sáng lập Đại Việt Dân chính Đảng, từng làm Bí thư trưởng của Việt Nam Quốc dân Đảng (khi Đại Việt Dân chính Đảng hợp nhất với Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng) và giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến.
Ông sinh ra tại phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương ngày 25.7.1906. Nguyên quán của ông là làng Cẩm Phô, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông bị chính quyền Đệ I VNCH, Tổng thống Ngô Ðình Diệm gọi ra xử ngày mùng 8 tháng 7 năm 1963 vì nghi có dính líu đến vụ đảo chính ngày 11 tháng 11 năm 1960, nhưng ông đã uống thuốc độc quyên sinh vào ngày mùng 7 tháng 7 năm 1963 tại tư gia ở Sài Gòn.
Trong 40 năm hoạt động văn học và chính trị, Ông đã hoàn thành trên 20 tác phẩm lưu lại cho hậu thế.